Chăm sóc bệnh nhân có ý tưởng và hành vi tự sát

I/ ĐẶT VẤN ĐỀ:

Từ thời rất xa xưa con người đã bị rối loạn khí sắc. Những nhà khảo cổ học đã tìm thấy những sọ người cổ bị khoan các lỗ nhằm giải thoát “những linh hồn của quỷ” ở những cảm xúc buồn rầu và hành vi kỳ lạ. Cho đến giữa những năm 1950 chưa có biện pháp điều trị hiệu quả đối với chứng trầm cảm hay hưng cảm nặng. Các bệnh nhân này rất đau khổ về tình trạng khí sắc thay đổi của mình. Họ nghĩ rằng họ yếu ớt một cách tuyệt vọng nên không thể chống cự lại các triệu chứng bệnh này.

Trong môi trường xã hội phát triển hiện nay, tỉ lệ người có ý tưởng và hành vi tự sát ngày càng có xu hướng gia tăng, đặc biệt là những người trẻ tuổi, kể cả thanh thiếu niên. Việc tự sát dẫn đến tình trạng tử vong có nguyên nhân xuất phát từ các bệnh tâm thần và trầm cảm hay một bức xúc nào đó bị dồn nén trong cuộc sống đời thường mà không tự điều chỉnh được.

Ý tưởng và hành vi tự sát của con người được hình thành do nhiều nguyên nhân khác nhau có liên quan đến tiền sử sinh hoạt của cá nhân và gia đình; các bệnh về tâm thần, tâm thần phân liệt, rối loạn phân ly…Người có ý tưởng và hành vi tự sát rất cần được người trong gia đình phát hiện, giúp đỡ và xử trí kịp thời, kể cả khi đã có hành vi tự sát. Đồng thời việc phòng ngừa tự sát cũng là vấn đề trách nhiệm cần thiết đặt ra cho cả gia đình, xã hội.

II/ MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ TỰ SÁT:

1. Ý tưởng tự sát: Người bệnh có ý nghĩ muốn chết, nhưng chưa hành động.

2. Toan tự sát (tự sát không hoàn thành): Người bệnh đã có những hành vi khác nhau, với ý muốn một cách có ý thức và có suy nghĩ để tự làm chết mình, nhưng không đạt được kết quả như họ mong muốn.

3. Tự sát (tự sát hoàn thành): Là hành vi tự đem lại cái chết cho bản thân mình.

III/ NGUYÊN NHÂN:

1. Ở người bình thường:

– Quá thất vọng, quá đau khổ hay quá chán nản buồn rầu

– Thấy cuộc đời không có lối thoát.

–  Bị nghi ngờ, oan ức…

2. Ở người bệnh tâm thần

3. Nguyên nhân bệnh lý:

– Trạng thái trầm cảm nặng (đặc biệt khi có thêm hoang tưởng bị tội).

– Do hoang tưởng, ảo giác chi phối (tâm thần phân liệt, loạn thần do rượu, ma túy tổng hợp)

– Do hành vi xung động trong hội chứng căng trương lực.

– Nhân cách bệnh ở lứa tuổi vị thành niên.

– Trạng thái ý thức hoàng hôn.

– Trạng thái bồn chồn, bất an.

4. Nguyên nhân tâm lý:

– Trạng thái buồn rầu, chán nản không muốn sống ở người bị bệnh mạn tính (tai biến mạch máu não, ung thư, HIV,…), họ mất niềm tin hy vọng chữa khỏi bệnh.

– Cho rằng gia đình đã bỏ rơi hay lừa gạt mình.

– Lúc đầu dọa tự sát nhưng sau đó tự sát thật sự.

– Sự thích kịch tính hóa ở bệnh nhân rối loạn phân ly.

* Lưu ý: Tự sát do nguyên nhân tâm lý thường khó phát hiện hơn tự sát do nguyên nhân bệnh lý.

IV/ TRẠNG THÁI TỰ SÁT Ở BỆNH NHÂN TÂM THẦN:

1. Tính 2 chiều trái ngược: Phần lớn bệnh nhân tự sát có cảm xúc 2 chiều trái ngược cho đến khi chết. Có sự đấu tranh bất phân thắng bại giữa ước muốn và muốn chết. (Nếu sự mâu thuẫn đó được các Bác sỹ nhận biết và làm tăng ước muốn sống thì nguy cơ tự sát có thể giảm đi).

2. Tính xung đột: tự sát là một hiện tượng có tính xung động và sự xung động có bản chất là nhất thời, thoáng qua. Nếu có sự hỗ trợ ngay khi có sự xung động, nguy cơ tự sát có thể giảm bớt.

3. Cứng nhắc: Người bệnh thường bó hẹp suy nghĩ, cảm xúc, hành động của mình. Lý lẽ của họ được phân thành hai thái cực hoặc là thế này, hoặc là thế kia. Bằng cách thăm dò một số khả năng có thể thay thế cái chết.

*Lưu ý:

– Những nơi dễ tự sát: phòng cách ly, ô cửa sổ, nhà tắm, nhà vệ sinh, ổ cắm điện, gầm giường, nơi treo cổ có thể không cao lắm.

– Những giờ dễ tự sát: giờ đổi trực, giờ ăn, giờ bệnh nhân sinh hoạt, nửa đêm gần sáng…

V/ PHÂN TÍCH DỮ KIỆN – XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ:

1/ Phân tích dữ kiện:

Người Điều dưỡng cần phân tích các dữ kiện đã thu thập nhằm xác định các ưu tiên và chăm sóc. Các chẩn đoán Điều dưỡng sau đây như:

– Nguy cơ tự tử

– Mất cân bằng dinh dưỡng: ít hơn nhu cầu đòi hỏi cơ thể.

– Lo âu

– Đối phó không hiệu quả.

– Tuyệt vọng

– Không hoàn thành trách nhiệm.

– Giảm sút trong chăm sóc bản thân.

– Suy giảm lòng tự tin kéo dài.

– Rối loạn giấc ngủ.

– Suy giảm khả năng giao tiếp xã hội.

2/ Xác định kết quả:

Diễn tiến của người bệnh sẽ liên quan đến biểu hiện như người bệnh tỏ ra chậm chạp hay kích động, ngủ quá nhiều hay quá ít, hoặc ăn quá nhiều hay quá ít…

Các ví dụ về kết quả có thể xảy ra ở một bệnh nhân trầm cảm chậm chạp tâm thần vận động như sau:

– Người bệnh sẽ không làm tổn thương bản thân.

– Người bệnh sẽ thực hiện các hoạt động hằng ngày một cách độc lập (tắm rửa, thay đổi y phục, ăn mặc tươm tất).

– Người bệnh thiết lập được sự cân bằng giữa nghỉ ngơi, ngủ và hoạt động.

– Người bệnh thiết lập được sự cân bằng giữa dinh dưỡng đầy đủ, uống nước và bài tiết.

– Người bệnh đánh giá về bản thân một cách thực tế.

– Người bệnh có mối quan hệ với nhân viên y tế, các người bệnh khác và các thành viên gia đình hay bạn bè.

– Người bệnh trở lại làm việc hay học tập.

– Người bệnh tuân thủ điều trị thuốc.

– Người bệnh báo cáo về các triệu chứng tái diễn.

VI/ CÁC BIỆN PHÁP CAN THIỆP:

1. Giữ bệnh nhân an toàn:

Ưu tiên đầu tiên là phải xác định xem người bệnh có ý nghĩ tự sát hay không. Nếu người bệnh có ý nghĩ tự sát hay có ảo thanh mệnh lệnh bảo người bệnh thực hiện hành vi tự sát thì nhất thiết phải cung cấp môi trường an toàn cho người bệnh. Trường hợp người bệnh có kế hoạch tự sát thì người điều dưỡng phải hỏi thêm nhằm xác định tính nghiêm trọng của ý định và kế hoạch. Người điều dưỡng phải báo cáo thông tin này cho Bác sỹ điều trị.

Người điều dưỡng cần phải tiến hành các biện pháp phòng ngừa tự sát ví dụ như: cất đi những vật có thể gây hại, tăng cường giám sát.

Ví dụ: người bệnh nói “Tôi muốn ở một mình trong phòng để suy nghĩ riêng tư”. Điều này không được phép, người điều dưỡng có thể đi khỏi đó để tránh gây khó chịu cho người bệnh, nhưng cần phải có người nhà ở cạnh giám sát và người điều dưỡng theo dõi từ xa.

2. Xây dựng mối quan hệ điều trị:

Điều quan trọng là người điều dưỡng phải tiếp xúc tốt với người bệnh và bắt đầu ngay mối quan hệ điều trị. Vài bệnh nhân rất cởi mở trong việc nói ra cảm xúc buồn, tuyệt vọng, vô dụng hay kích động. Người bệnh có thể không duy trì được khả năng nói chuyện trong một thời gian dài, do đó người điều dưỡng nên quan sát và thăm hỏi bệnh nhân nhiều lần, mỗi lần chỉ trong thời gian ngắn. Điều này sẽ giúp người điều dưỡng đánh giá tình trạng người bệnh cũng như xác lập mối quan hệ điều trị tốt hơn.

Người điều dưỡng có thể ngồi cùng với người bệnh trong vài phút và nhiều lần trong ngày. Sự xuất hiện của bản thân người điều dưỡng nói lên rằng họ quan tâm và muốn chăm sóc bệnh nhân thật sự. Người điều dưỡng cũng không cần thiết phải nói với người bệnh suốt ngày mà trái lại sự im lặng đôi khi cũng có giá trị ngay cả trong trường hợp người bệnh không muốn trả lời. Ví dụ như:

“Tên tôi là A. Tôi là điều dưỡng và có nhiệm vụ chăm sóc anh (chị) trong ngày hôm nay. Tôi sẽ ngồi với anh (chị) trong vài phút. Nếu anh (chị) cần điều gì hay nếu anh (chị) muốn nói điều gì, xin cứ tự nhiên”

Sau một thời gian trôi qua người điều dưỡng có thể nói:

“Tôi sẽ đi bây giờ và tôi sẽ trở lại trong một giờ nữa để thăm anh (chị)”

Điều quan trọng là người điều dưỡng cần phải tránh tỏ ra quá vui vẻ hay cố gắng làm cho người bệnh vui vẻ quá mức. Không thể chỉ dỗ ngọt hay chìu chuộng mà người bệnh có thể thoát ra khỏi tình trạng bệnh. Thực tế là cách tiếp cận quá vui vẻ rõ rệt có thể làm người bệnh cảm thấy tệ hơn hay nghĩ rằng người điều dưỡng không hiểu về tình trạng tuyệt vọng của họ.

3. Thiết lập các hoạt động trong cuộc sống hằng ngày và chăm sóc cơ thể:

Khả năng thực hiện các hoạt động hàng ngày liên quan đến mức độ chậm chạp tâm thần vận động. Để đánh giá một cách độc lập khả năng thực hiện các hoạt động hàng ngày, đầu tiên người điều dưỡng cần phải yêu cầu người bệnh thực hiện các công việc có tính chất tổng quát. Ví dụ như:

“Anh (chị), đã đến giờ thay đồ”. (công việc tổng quát)

Nếu người bệnh không thể thực hiện được một công việc có tính chất tổng quát thì người điều dưỡng phải chia nhỏ công việc ra thành từng phần và cụ thể để họ dễ dàng thực hiện thành công hơn.

Thông thường người bệnh suy giảm việc tham gia vào các hoạt động bởi vì họ quá mệt mỏi hay không thích thú, do đó người điều dưỡng cần giúp người bệnh bằng cách khuyến khích họ tham gia. Ví dụ như bằng câu nói “ Tôi biết hiện giờ anh (chị) muốn nằm trên giường nhưng bây giờ anh (chị ) phải dậy để ăn sáng anh (chị) à”. Thường người bệnh muốn nằm trên giường cho đến khi họ cảm thấy có thể dậy nổi hoặc có thể tham gia vào các hoạt động hàng ngày. Người điều dưỡng có thể cho người bệnh biết rằng họ cần phải tích cực hơn để có thể lành bệnh nhanh hơn thay vì chủ động chờ đợi bệnh tự cải thiện. Không nên hỏi người bệnh những câu hỏi kiểu “có hoặc không”. Thay vì hỏi “anh (chị) có muốn thức dậy bây giờ không?” thì người điều dưỡng nên hỏi là “hiện giờ đã đến giờ thức dậy rồi”.

Tái lập cân bằng dinh dưỡng có thể là một thách thức khi người bệnh không có cảm giác ngon miệng hay không muốn ăn. Người điều dưỡng có thể giải thích rằng sự cố gắng bắt đầu ăn sẽ kích thích cảm giác ngon miệng. Nên cho người bệnh ăn nhiều lấn, mỗi lần số lượng ít để làm giảm cảm giác không muốn ăn. Việc người điều dưỡng cùng ngồi yên lặng trong khi người bệnh ăn cũng giúp người bệnh có thể ăn dễ dàng hơn. Nên theo dõi việc ăn uống của người bệnh cho đến khi có thể ăn uống bình thường.

Để khắc phục rối loạn giấc ngủ người điều dưỡng có thể báo Bác sỹ cho người bệnh sử dụng thuốc an thần trong thời gian ngắn vào buổi tối. Điều quan trọng cần làm là khuyến khích người bệnh ra khỏi giường và hoạt động suốt ngày nhằm giúp ngủ tốt hơn vào buổi tối. Cần nhớ rằng chúng ta nên theo dõi số lượng giờ ngủ của người bệnh cũng như việc họ có cảm thấy tươi tỉnh, thoải mái lúc thức dậy hay không.

VII/ CÁC VẤN ĐỀ ĐIỀU DƯỠNG TỰ Ý THỨC:

– Làm việc với người bệnh trầm cảm thường tiêu cực, bi quan và không thể phát ra những ý tưởng mới dễ dàng. Họ cảm thấy vô vọng và bất lực. Người điều dưỡng có thể dễ dàng trở nên lãng phí với việc đề nghị những cách để giải quyết vấn đề. Hầu hết người bệnh tìm ra một vài lý do tại sao giải pháp của người điều dưỡng không có tác dụng: “tôi đã thử điều đó rồi”, “nó sẽ không bao giờ có tác dụng”, “tôi không có thời gian” hoặc “bạn không hiểu gì cả”. Tống khứ những lời đề nghị có thể làm cho người điều dưỡng cảm thấy bất lực và nghi ngờ kỹ năng chuyên môn của mình. Trừ khi một người bệnh tự tử hoặc trải nghiệm một khủng hoảng, người điều dưỡng không phải cố gắng giải quyết vấn đề của người bệnh. Thay vào đó, người điều dưỡng sử dụng các kỹ thuật điều trị để khuyến khích người bệnh có khuynh hướng hành động theo kế hoạch hoặc giải pháp cho riêng họ. Phát hiện và hành động theo giải pháp của họ cho người bệnh làm mới năng lực và giá trị bản thân.

– Làm việc với người bệnh hưng cảm có thể làm kiệt sức. Họ quá năng động đến nỗi người điều dưỡng có thể cảm thấy mệt mỏi sau khi chăm sóc họ, người điều dưỡng cũng có thể thấy thất vọng vì những người bệnh này tham dự vào các hành vi lặp đi lặp lại, như là xâm phạm vào những người khác, cởi đồ, hát hò…Rất khó khăn để giữ và làm dịu người bệnh hưng cảm, nhưng điều quan trọng là người điều dưỡng cung cấp những giới hạn và định hướng lại theo những cách làm dịu cho đến khi người bệnh có thể kiểm soát hành vi của riêng họ một cách độc lập. Nên lưu ý những người bệnh hưng cảm có thẻ trông như rất hạnh phúc, nhưng họ đau khổ bên trong.

Lê Thị Thủy/ Khoa Cấp tính Nữ
Bệnh viện Tâm thần Quảng nam